Liệu DN Việt Nam Có Thể Dừng Hình Thức Nhập CIF Xuất FOB?
Ở các nước phát triển, khi xuất khẩu (XK) hàng hóa, người xuất khẩu thường tìm mọi cách để giao hàng với điều kiện giá CIF, khi nhập khẩu (NK), người nhập khẩu lại luôn đàm phán để mua được hàng theo điều kiện giá FOB. Tuy nhiên ở Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh XNK đang thực hiện theo phương thức ngược lại: xuất hàng theo giá FOB và nhập theo giá CIF. Điều này đã trở thành tập quán trong kinh doanh XNK ở Việt Nam từ nhiều năm nay.
Vậy đầu tiên chúng ta hãy tìm hiểu nguyên nhân nào dẫn đến “thói quen” này?
-Vận tải biển Việt Nam chưa đủ mạnh:
Các doanh nghiệp làm dịch vụ hàng hải và đại lý vận tải vẫn chưa mở rộng ra thị trường nước ngoài. Mạng lưới vận tải biển của Việt Nam ở nước ngoài còn quá ít, hệ thống quản lý thưa thớt, giá cước vận chuyển cao trong khi so sánh với mặt bằng giá cước của các đội tàu vận tải biển nước ngoài. Mặt khác, đội tàu thường cũ nát, các tàu có độ tuổi tương đối cao (phần lớn trong khoảng 10 đến 20 tuổi, thậm chí có những tàu từ 25 đến 30 tuổi), tàu lạc hậu nên mức tiêu hao nhiên liệu cao, chi phí cho sửa chữa lớn, điều này tiếp tục là nguyên nhân kéo giá vận tải tăng.
-Ngành bảo hiểm chưa thực sự có uy tín:
Đội ngũ cán bộ bảo hiểm được đào tạo chưa nhiều, do đó khi giải quyết khiếu nại của khách hàng thường lúng túng, kéo dài thời gian bồi thường, điều này làm giảm uy tín của công ty bảo hiểm. Vốn của các công ty bảo hiểm còn ít, vì vậy khi số tiền bảo hiểm lớn thường phải tái bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm nước ngoài. Cách tính phí bảo hiểm chưa hợp lý, khiến cho các công ty XNK nhận thấy quyền lợi của họ khi được bồi thường không thỏa đáng.
-Chưa có sự đồng bộ giữa các ngành:
Do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giưa chủ hàng, chủ tàu, và các nhà bảo hiểm Việt Nam, nên nhiều khi có tình trạng có hàng để xuất nhưng lại thiếu tàu chở (xuất than, gạo,..) hoặc ngược lại (đói hàng). Trong khi đó ở nước ngoài sự liên kết giữa các doanh nghiệp X-NK, vận tải và bảo hiểm rất gắn bó vì lợi ích bản thân và quốc gia của họ. Thậm chí có những khách hàng nước ngoài chấp nhận mua CIF (hoặc CFR) bán FOB nhưng với điều kiện chúng ta phải thuê tàu tại những hãng tàu của họ, muốn tạo sự liên kết này cần sự hỗ trợ của Nhà nước, sự hỗ trợ này đóng vai trò rất quan trọng và mang tính quyết định.
-Các doanh nghiệp XNK sợ rủi ro trong thuê tàu và mua bảo hiểm:
Do xuất FOB và bán CIF, các doanh nghiệp Việt Nam không phải thuê tàu và mua bảo hiểm cho hàng hóa nên có thể tránh được những rủi ro như giá cước vận chuyển tăng, phí bảo hiểm tăng, không thuê được tàu, tàu không phù hợp.. vì sợ những rủi ro đó nên chúng ta nhượng lại việc thuê tàu và bảo hiểm cho khách hàng nước ngoài.
-Thiếu kiến thức kinh nghiệm về vận tải bảo hiểm:
Nhiều nhà kinh doanh XNK Việt Nam chưa nắm vững nghiệp vụ thuê tàu và bảo hiểm, họ cũng không có mối quan hệ với tất cả các hãng vận tải và các công ty bảo hiểm, để lựa chọn người chuyên chở và có uy tín trên thị trường. Đặc biệt khi hàng hóa có số lượng lớn phải thuê tàu chuyên để chở, nghiệp vụ thuê tàu rất phức tạp, trình độ cán bộ của nhiều doanh nghiệp chưa thể đáp ứng được. Hiểu sai về điều kiện FOB và CIF: theo điều kiện FOB thì việc giao hàng tại cảng bốc hàng, còn theo điều kiện CIF thì việc giao hàng tận cảng đến cho người mua chính. Vì vậy nhiều doanh nghiệp cho rằng “xuất FOB an toàn hơn và thanh toán nhanh hơn CIF và nhập CIF an toàn và được thanh toán nhanh hơn FOB”. Thực tế, theo INCONTERMS 2010, trong cả điều kiện FOB và CIF (kể cả CFR) người bán chỉ chịu rủi ro và các phí tổn phát sinh liên quan đến hàng hóa cho đến khi hàng qua lan can tàu tại cảng bốc hàng. Việc thanh toán tiền hàng nhanh hay chậm hoàn toàn tùy thuộc vào quy định trong hợp đồng chứ không phụ thuộc vào điều kiện FOB hay CIF.
-Các doanh nghiệp XNK gặp khó khăn về vốn, doanh nghiệp Việt Nam còn yếu thế trong giao dịch thương mại:
Vốn của nhiều doanh nghiệp để XK hay NK một lô hàng là vốn đi vay từ các ngân hàng, họ không đủ vốn để trả cước phí vận tải và bảo hiểm. Bên cạnh đó, hàng XK của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế có giá trị thấp nên tỷ lệ cước phí so với tiền hàng khá lớn. Thông thường tiền cước vận chuyển chiếm từ 7% đến 10% giá CIF của hàng hóa, nhưng do hàng XK của người Việt Nam người cồng kềnh, giá trị thấp, nên tỷ lệ này thường cao hơn (có mặt hàng lên tới 50%). Khi XK giá FOB (NK giá CIF) người XK (người NK) không phải lo về thuê tàu, phương tiện, thu xếp hợp đồng bảo hiểm hàng hóa… điều này phù hợp với những công ty kinh doanh XNK mới thành lập, còn thiếu kinh nghiệm và điều kiện tài chính còn yếu.
Một số giải pháp để giải quyết vấn đề này
Một là
Các doanh nghiệp cần nhận thức đúng đắn và đầy đủ về điều kiện giá CIF và FOB trong XNK hàng hóa. Đẩy nhanh hơn nữa việc chuyển đổi hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thương trường. Từ đó, đảm bảo hiệu quả kinh doanh tối đa tất yếu sẽ trở thành mục tiêu quan trọng nhất cần phải theo đuổi. Với mục tiêu đó, việc nghiên cứu và tìm mọi phương án để thay đổi phương thức trong kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ được các doanh nghiệp quan tâm thực hiện. Khi các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn hiện nay chuyển đổi thành công ty cổ phần và hoạt động kinh doanh không có sự bảo hộ của Nhà nước, đi tiên phong thực hiện phương thức “mua FOB, bán CIF” sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp khác thực hiện theo.
Hai là
Doanh nghiệp XNK thiếu vốn, có thể dùng thư tín dụng (L/C) thế chấp tại ngân hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn. Các doanh nghiệp XNK nhỏ, cùng loại hình, có mối quan hệ tin cậy nên “bắt tay” kết hợp với nhau trong những giao dịch thương mại, tập hợp vốn để thực hiện thành công những thương vụ nhập FOB – xuất CIF.
Ba là
Cần có quy hoạch phát triển một cách khoa học, hợp lý và đầu tư đủ mạnh cho việc nâng cấp lực lượng vận tải biển Việt Nam để đủ sức vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam đi các nước trên thế giới và ngược lại với độ an toàn cao, giá cước hợp lý. Đây là nhân tố quan trọng nhất để các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu yên tâm khi trao gửi hàng hóa của mình cho nhà vận tải khi xuất khẩu, nhập khẩu.
Bốn là
Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logicstic cần nhanh chóng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, kiến thức về thương mại quốc tế để hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi thực hiện “mua FOB, bán CIF”. Đó cũng chính là bước chuẩn bị quan trọng để chiếm lĩnh thị trường logicstic khi chúng ta mở cửa thị trường này cho các nhà đầu tư nước ngoài vào năm 2014.
Năm là
Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và các doanh nghiệp kinh doanh logicstic không nên thụ động chờ đợi sự thay đổi mà cần hợp tác chặt chẽ với nhau tư vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thay đổi phương thức giao, nhận hàng. Nếu những khó khăn ban đầu của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong việc thay đổi phương thức giao, nhận hàng được tư vấn, hỗ trợ và vượt qua, chắc chắn rằng, “mua FOB, bán CIF” sẽ trở thành phổ biến và thị phần bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ được “trả lại” cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu, kinh doanh logicstic cũng sẽ tăng lên.