Hiện 95% các doanh nghiệp logistics hoạt động với quy mô nhỏ, hạn chế cả về vốn và nhân lực. Do đó, việc đẩy mạnh liên kết sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cũng như tạo dựng niềm tin lẫn nhau để hình thành mạng lưới liên kết, có năng lực dẫn dắt thị trường.
Theo Bộ Công Thương, thời gian qua, ngành logistics Việt Nam đã phát triển và tăng trưởng nhanh, bình quân khoảng 14-16%/năm. Báo cáo về Chỉ số logistics thị trường mới nổi 2021, do nhà cung cấp dịch vụ kho vận hàng đầu thế giới Agility mới công bố cho thấy, Việt Nam tăng thêm 3 bậc xếp hạng so với năm 2020, đứng ở vị trí thứ 8 trong Top 10 quốc gia đứng đầu.
Tuy nhiên, chi phí logistics của Việt Nam còn cao, chiếm khoảng hơn 20% GDP. Trong khi đó, mức chi phí logistics trung bình trên thế giới, chỉ khoảng 11% GDP. Trong số hơn 4.000 doanh nghiệp đang kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam, có tới 95% là doanh nghiệp trong nước, nhưng hầu hết là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế.
Cùng với đó, các doanh nghiệp chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về sân chơi.
“Quy mô doanh nghiệp hạn chế là một trong những rào cản khi cung cấp chuỗi dịch vụ logistics hiệu quả, cạnh trạnh ngay cả trên thị trường nội địa, chứ chưa nói trên khu vực và thế giới”, ông Đỗ Xuân Quang, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết.
Thói quen kinh doanh làm doanh nghiệp Việt mất đi lợi thế ngay chính “sân nhà”. Bởi hiện nay, Việt Nam chủ yếu vẫn là gia công nên giá trị thực tế không cao, giá trị thu được chỉ khoảng 10% mỗi đơn hàng. Khi xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt giao hàng đến mạn tàu (giá FOB), phía bạn hàng chỉ định hãng tàu và trả tiền vận chuyển. Chính vì vậy, xuất khẩu của Việt Nam dù có nhiều bao nhiêu thì đa số việc vận chuyển đều rơi vào tay những tập đoàn vận chuyển đa quốc gia.
Đồng quan điểm này, ông Nguyễn Quốc Phương, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) chia sẻ, trong cơ cấu tổng sản lượng vận chuyển hàng hóa, hàng hóa quốc tế chiếm đến 80%. Và thị phần vận chuyển hàng hóa quốc tế của các hãng hàng không trong nước chỉ chiếm 12%, 88% còn lại nằm trong tay 75 hãng hàng không nước ngoài có đường bay đến Việt Nam.
Các sản phẩm chủ yếu sử dụng phương thức vận chuyển hàng không là điện thoại, máy tính bảng, hàng điện tử, mỹ phẩm, hàng dệt may và một số sản phẩm nông nghiệp như thủy sản, hoa, quả. Hàng không chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển của Việt Nam, nhưng chiếm đến 25% tổng giá trị xuất khẩu của đất nước.
Bên cạnh khó khăn về cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình vận hành trong nước. Với lượng khách trên 500.000 nhà bán hàng hoạt động thường xuyên trong tháng và mạng lưới phủ tới 11.000 huyện, xã trên cả nước, đại diện Công ty CP Giaohangtietkiem cho biết, khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp này đang phải đối diện là hệ thống giao thông đường bộ quá tải và chưa kết nối với kho bãi. Thêm vào đó, dịch vụ e-logistics – hậu cần thương mại điện tử cũng gặp khó khăn về kho bãi không đạt chuẩn, cách xa khu công nghiệp. Chưa kể đến việc hệ thống pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics chưa nhất quán, đồng bộ, các quy định pháp luật hiện hành không phù hợp với hoạt động thương mại điện tử…
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh đánh giá, dịch vụ logistics là ngành có tiềm năng phát triển rất lớn, đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng. Theo báo cáo của ResearchAndMmarket.com, quy mô thị trường logistics toàn cầu ước đạt 3.215 tỷ USD vào năm 2021, tăng 17,6% so với năm 2020. Điều này cho thấy ngành logistics vẫn có tiềm năng phát triển rất lớn.
Ông Đỗ Huy Bình, Hiệp hội doanh nghiệp Logistics Việt Nam đề xuất: “Cần phải liên kết để tạo sức mạnh cộng hưởng mới có thể vượt qua thách thức cạnh tranh với các “đại gia” logistics quốc tế. Hình thành mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt thị trường, tìm kiếm, chia sẻ đơn hàng; có khả năng làm giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam”.
Về phía doanh nghiệp, đại diện Công ty CP Giaohangtietkiem kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương có quan điểm chỉ đạo về việc tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp logistics, hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Ngoài ra, các địa phương ưu tiên mở rộng quỹ đất, đầu tư hoàn thiện hạ tầng logistics bằng việc tiếp tục rà soát quy hoạch, đầu tư xây dựng, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng các trung tâm kho vận lớn, tập trung ở các địa phương và thành phố.
Mặt khác, cơ quan chức năng cần nâng cấp và kết nối đồng bộ hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải; giảm các khoản phí hạ tầng, phụ phí bến bãi; cho phép tối ưu hóa các nguồn lực thông qua tái phân phối, chia sẻ và tái sử dụng năng lực dư thừa để thúc đẩy ngành logistics Việt Nam vươn tầm quốc tế.
Ở góc độ quản lý, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cũng cho rằng, việc đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp logistics với nhau, giữa doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu là bài toán sống còn, thúc đẩy ngành logistics phát triển.
Đồng thời, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh chỉ rõ, Quyết định 221/QĐ-TTg ngày 22/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 đã đặt mục tiêu: “Đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt 5% – 6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15% – 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% – 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% – 20% GDP, xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 50 trở lên”.
Quyết định 221/QĐ-TTg cũng đặt ra 6 nhóm nhiệm vụ chính mà các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội cần thực hiện để đạt được mục tiêu nêu trên. Trong đó, phát triển thị trường dịch vụ logistics là một trong 6 nhóm nhiệm vụ chính mà Quyết định 200/QĐ-TTg và Quyết định 221/QĐ-TTg đã đưa ra.
“Doanh nghiệp logistics trong nước cần phải liên kết để tạo sức mạnh cộng hưởng mới có thể vượt qua thách thức cạnh tranh với doanh nghiệp quốc tế và nắm bắt tốt cơ hội trong quá trình hội nhập quốc tế. Việc hình thành mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt thị trường, tìm kiếm, chia sẻ đơn hàng sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam”, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho hay.
Theo baotintuc.vn
Khái niệm Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO) là một chứng từ quan…
Dịch vụ khai báo hải quan là một khâu chính trong việc đảm bảo hàng…
Dịch vụ hải quan tại Nội Bài - cho khách hàng công ty Bạn muốn…
Ra mắt giao diện mới Tạp chí điện tử Hải Quan Online Sáng 14/6, tại…
Khái niệm Incoterms (viết tắt của International Commerce Terms – Các điều khoản thương mại quốc tế) là…
1. Hóa đơn thương mại - những thông tin cần biết năm 2022 Commercial invoice hay…